Bác Hồ sinh ra ở miền quê sông Lam, theo cha vào Huế nơi có sông Hương, dạy học ở Phan Thiết nơi có dòng sông Cái và xuống tàu tìm đường cứu nước từ sông Sài Gòn. Từ đó, Bác qua Pháp nơi gắn liền với dòng sông Seine, tìm ánh sáng luận cương Lenin ở nước Nga, nơi có sông Volga và cuối cùng về Hà Nội nơi có dòng sông Hồng nổi tiếng. Còn có một con sông là dòng sông dân ca bắt đầu từ những lời ru của mẹ trên cánh võng đay thấm vào Người mạch nguồn văn hóa dân gian, dân tộc để sau này đến với văn hóa bác học, văn hóa nhân loại. Sau hàng chục năm bôn ba nước ngoài trở về Tổ quốc thân yêu, Bác vẫn không quên được những câu ví dặm, hát phường vải của quê hương: “À ơi! (chứ) ai biết nác sông Lam răng là trong là đục - Thì mới biết cuộc đời răng là nhục là vinh - (Chứ) Thuyền em lên thác xuống ghềnh - Nước non là nghĩa là tình ai ơi”. Bác Hồ đã sửa chữ “nước” thành chữ “nác” cho một nghệ nhân khi đoàn dân ca Nghệ Tĩnh vào Phủ Chủ tịch hát cho Người nghe. Nguồn mạch dân ca đã gieo vào Người tình yêu những tác phẩm văn chương nổi tiếng: “Truyện Kiều”, “Chinh phụ ngâm”. Bác thường hay lẩy Kiều và khi trên đường đi hoạt động bí mật bác thường ngâm “Chinh phụ ngâm” cho các đồng chí của mình nghe.
Về quê Bác ta như được sống lại ký ức của miền quê nông thôn nước Việt thân yêu. Đi qua cổng chính hai bên lối vào là hàng rào dâm bụt đỏ hoa quê. Nơi ấy có mảnh sân và khu vườn với những cây, những quả như bao mảnh vườn quê thân thuộc khác. Đó là hàng cau cao vút, vồng khoai lang lấp ló hoa tím, gốc mít, là cây bưởi nặng trĩu quả. Mấy gian nhà lợp mái tranh đơn sơ giản dị bạc màu theo mưa nắng nép mình dưới rặng tre sau nhà bốn mùa xào xạc gió thổi. Dưới nếp nhà tranh mộc mạc nơi “Làng sen quê cha”, Người đã cất tiếng khóc chào đời. Còn đây những kỷ vật bình dị với án thư, tấm phản thường ngày cụ Nguyễn Sinh Sắc dạy học, với cánh võng đay đung đưa năm tháng với tuổi thơ của Bác. Còn đây chiếc rương gỗ đựng lương thực, chiếc tủ đứng hai ngăn đựng đồ dùng sinh hoạt hàng ngày, chiếc mâm đồng bằng gỗ sơn đen... như làm sống lại ký ức một thời trong mênh mang da diết của bài hát “Người về thăm quê” của nhạc sĩ Thuận Yến: “Gặp lại tiếng thoi mẹ ngồi dệt vải - Gặp lại giọng trầm đêm trăng cha đọc thơ - Gặp lại tuổi xuân đi nghe hát đò đưa...”.
Tháng 5 nhớ Bác, về quê Bác tôi bồi hồi đứng bên chiếc khung cửi dệt vải năm xưa của bà Hoàng Thị Loan thân mẫu của Người. Nghe bà con ở làng Sen kể, tôi mới biết ở Kim Liên có một nghề phụ rất phổ biến lúc nông nhàn là dệt vải, kéo sợi. Ở Kim Liên trước đây nhà nào cũng kéo vải. Nghề kéo vải thường là nghề của đàn bà, con gái. Kéo một mình thì buồn nên các bà, các cô thường rủ nhau tụ họp tại một nhà nào đó trong thôn xóm không chỉ để tiện đèn dầu mà còn để động viên nhau, cổ vũ lẫn nhau và hát. Phường vải hội họp sinh ra từ đó và đây cũng chính là ngọn nguồn tục hát ví, hát phường vải. Nghe nói bà Hoàng Thị Loan là một trong những người xuất sắc một thời trong làng hát phường vải. Sau này khi theo ông Nguyễn Sinh Sắc đưa những đứa con vào Huế, ở đất kinh thành bà vẫn sắm khung cửi để dệt vải nuôi chồng dùi mài kinh sử thi cử, nuôi các con chăm ngoan học hành khôn lớn. Khi lên thăm mộ bà Hoàng Thị Loan trên núi Động Tranh, tôi thấy kiến trúc sư thật có lý và tinh tế sâu sắc khi thiết kế toàn bộ phần mộ được che bằng giàn hoa xây bê-tông kiểu dáng như một chiếc khung cửi cách điệu mà hai đường lên xuống với hàng trăm bậc thang lát đá giống như hai dải lụa đào, gợi nhớ cuộc đời canh cửi vất vả để nuôi chồng, nuôi con thuở sinh thời. Và tôi bồi hồi lặng đi khi biết giàn hoa được phủ bằng những gốc hoa giấy đưa từ khu mộ ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc từ Cao Lãnh (Đồng Tháp) về trồng ở đây. Bỗng ngân vọng trong tôi hai câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Bảo Định Giang đẹp như một áng ca dao thuần Việt: “Tháp Mười đẹp nhất bông sen - Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”.
Tháng 5 nhớ Bác, ta lại càng nhớ Người khi về thăm quê năm 1957 và năm 1961 đứng dưới bóng cây đa cổ thụ xanh tốt đầu làng, Bác đã căn dặn bà con làng Sen Kim Liên với giọng trầm ấm áp, dù bao năm đi xa tiếp xúc với nhiều ngôn ngữ với các nước khác nhau nhưng Bác vẫn giọng quê quen thuộc, vẫn những lời thân thiết gần gũi khi Bác lẩy Kiều: “Quê hương nghĩa trọng tình cao - Năm mươi năm ấy biết bao nhiêu tình”. Khi về thăm quê, Bác vẫn nhớ đi lối cũ ngày xưa, hỏi thăm lò rèn Cố Điền, rồi cái giếng Cốc quen thuộc gắn bó với tuổi thơ đi lấy nước cho cô Thanh (chị Bác) nấu ăn. Bác vẫn nhận ra người bạn thuở nhỏ đã từng câu cá với mình năm xưa ở hồ sen đầu làng. Bác chỉ vào vết sẹo ở vành tai mình mà nói: “Vết sẹo này do ông giật câu đấy nhé”. Rồi cả hai cùng cười giản dị như những lão nông. Người làng Sen không thể nào quên được câu nói rưng rưng của Bác Hồ khi Người đứng trước bàn thờ của Mẹ: “Xưa nhà Bác nghèo, bàn thờ chỉ làm bằng tre không có chân, mà chỉ dùng 2 miếng gỗ đóng giá vào hai bên cột đỡ bàn thờ lên, liếp bằng nứa trên trải bằng chiếc chiếu mộc”. Bác bùi ngùi nhìn chiếc giường thấp nơi người mẹ thân yêu thường ôm Bác vào lòng. Bác nhìn cái rương đựng lương thực có cái lỗ nhỏ mà ngày ấu thơ Bác và anh cả Khiêm thường thò ngón tay trỏ vào ngoáy ngoáy. Bồi hồi Bác nói: “Các cô, các chú thật khéo giữ, chiếc rương gỗ ngày xưa vẫn còn”. Sau đó Bác ngồi xổm trước thềm nhà thân mật nói chuyện với bà con làng Chùa.
Tháng 5 về quê Bác ta gặp bao giọng nói miền quê, bao lứa tuổi từ các cụ phụ lão đến các cháu thiếu nhi, từ Nam ra Bắc với muôn sắc áo, sắc màu dân tộc. Từ vùng núi cao phía Bắc đến đồng bằng sông Cửu Long, từ dân tộc Thái, Thổ, Tày, Nùng... đến dân tộc Ê Đê, Xu Đăng, Gia Rai... của Tây Nguyên đều quy tụ về đây thành một nước Việt Nam thu nhỏ. Ta còn gặp các đoàn khách nước ngoài với muôn thứ tiếng các màu da khác nhau. Họ có chung một ngôn ngữ khi gặp gỡ nhau ở đây bằng bập bẹ câu chào tiếng Việt: “Việt Nam - Hồ Chí Minh”. Về đây với làng Kim Liên (làng Sen) quê cha, làng Hoàng Trù (làng Chùa) quê mẹ của Bác Hồ nằm trải tròn như chiếc lá sen dưới chân núi Chung thoai thoải...
Tháng 5, ta lại nhớ Bác khôn nguôi, tháng 5 này cả dân tộc mừng đón 132 năm ngày sinh của Bác - vị lãnh tụ kính yêu đã để lại “Muôn vàn tình thân yêu trùm lên khắp quê hương” (Việt Phương) và: “Bác để tình thương cho chúng con - Một đời thanh bạch chẳng vàng son - Mong manh áo vải hồn muôn trượng - Hơn tượng đồng phơi những lối mòn” (Tố Hữu). Và “Yêu Bác lòng ta trong sáng hơn”, trong sáng và tinh khiết như hương sen thơm bát ngát gió đồng ở làng Sen - “Quê chung” trong lòng đất Việt..